Hoàng Triều Cương Thổ road© Part eight

Lăng Nguyễn Hữu Hào

Lăng Nguyễn Hữu Hào ist die Nguyen Huu Hao Grabstätte – Vater von Königin Nam Phuong – liegt auf den Hügeln im Südwesten Stadt Da Lat.[1]

lang2

Lăng Nguyễn Hữu Hào is Nguyen Huu Hao’s tomb – Queen Nam Phuong’s father – is located on the hills in the southwest city of Da Lat. 

lang3

In 1941 , an imposing mausoleum on a hill outside of Dalat was dedicated to Pierre Nguyen Huu Hao, the father of Empress Nam Phuong , herself a Catholic. The French press described the structure as “ the first great monument a truly Annamese character in DaLat“ .[2]

tombeau

Lăng Nguyễn Hữu Hào est la tombe de Nguyen Huu Hao – père de la reine Nam Phuong – est situé sur les collines de la ville sud-ouest de Da Lat.

nh6

bốn hàng chử nầy được khắc trên bốn trụ thẳng trang trí hoa sen và chó ngao do chính Nam Phương Hoàng Hậu đề tự . Cổng vào lăng Nguyễn Hửu Hào , cha của Nam Phương Hoàng Hậu . Mùa thu năm Kỷ Mão (13 tháng 9 năm 1939), Nguyễn Hữu Hào mất tại Đà Lạt , Nam Phương Hoàng Hậu cho xây dựng lăng mộ cho ông vào cuối năm 1939.

Dữ quốc đồng hưu thiên cổ hà sơn thư khoán vĩnh

Dưỡng thân dục đãi bách niên phong thụ đỉnh chung bi.

Chất giáng trụ thiên phảng phất anh linh quy thổ lạc.

Chung trừ túc địa uất thông vượng khí hộ giai thành.

Tạm dịch:

Một lòng với nước, ngàn năm sông núi mãi ghi trong sách sử, khoán ước.

Nuôi dưỡng cha mẹ, trăm năm cây gió khắc ghi nỗi đau buồn trên chuông đỉnh.

Chót vót chống trời, phảng phất khí thiêng về nơi an lạc.

Đất thiêng tốt lành, bao trùm vượng khí bảo vệ chốn giai thành.

nh13

Lăng Nguyễn Hửu Hào , Long Mỷ Quận Công , nằm trên một đồi thông gần thác Cam Ly . Đường lên lăng gọi là nhất chính đạo (con đường duy nhất lên lăng) gồm 36 bậc, cứ cách 9 -13 bậc sẽ có một chiếu nghỉ. Bây giờ thì có thêm một đường cho xe hơi chạy thẳng lên lăng .

nh111

Trên lăng có một khoảng sân tế rộng và một cái đỉnh lớn. Trong nội thất có hai ngôi mộ bằng đá xanh lộ thiên hình chữ nhật cao khoảng 30 cm. Ông Nguyễn Hửu Hào là người công giáo do đó trên mái đỉnh có hình cây thánh giá.

nh3

nh4

nh2

nh7

nh6

nh8

nh9

Bài minh bia hiên khảo

Long Mỹ Quận Công Nguyễn Hữu Hào

Khí thiên Đồng Nai , anh linh Tiền Giang

Hun đúc nên người , sinh bậc hiền triết tài năng

Kính nghĩ : cha ta trời ban chân tính , lòng từ hiếu hảo

Gửi thân đoan chính , gặp buổi văn minh

Kiến thức sâu rộng , giàu lòng đạo đức , người đều ngưỡng mộ

Lể giáo gia truyền , đức lớn sinh ta

Bệ son rợp ơn , dòng dõi vẽ vang

Thiên tử ơn sâu , tân phong công tước

Ước định khoản thư , bền với non sông

Nhưng tuần bảy mươi , hoá cỏi về trời

Danh cao bất hủ , muôn đời còn ghi

Ngắm trông núi hồ , mậy trắng vời vợi

Bên gò cảm xúc , gió thông vi vu

Tưởng nhớ đức xưa , tinh thần bất diệt

Nguyện cầu thiên chúa , che chở an lành

Cõi người kí gửi , biệt ly thường xuyên

Thiên đường hưởng phước , trăm đời đều về

Ơn sâu vô lượng , bươn bả mến thương

Dựng toà bia này , lâu đài ngàn đời

Ngày mùng 1 tháng 8 năm Bảo Đại thứ 14 ( 1939 )

Thiên chúa giáng sinh năm 1939 , ngày 13 tháng 9

Con gái :

– Hoàng Hậu Nam Phương nước Đại Nam

– Phu nhân Nam tước Didelot

Kính lập

Sở địa dư Đông Dương , 14 đường Yersin

Le service géographique de l’Indochine

Ngày 5.7.1894, Sở địa dư Đông Dương được thành lập, trụ sở đặt tại Hà Nội. Năm 1940, trụ sở Sở địa dư Đông Dương dời vào Gia Định.

sodiadu

Cuối năm 1944, Sở địa dư Đông Dương dời lên Đà Lạt với nhiệm vụ: biên tập, vẽ và in bản đồ phục vụ cho 3 nước Đông Dương. Sở địa dư Đông Dương được xây dựng từ năm 1939 và hoàn thành năm 1943.

diadu

Villa Lemoine
Tiểu Chủng Viện Thừa Sai Kontum tại nhà thương tư Sohier, Đà Lạt
(từ lớp Trosième đến lớp Terminale)

l111

Bác sỉ Lemoine có lẻ là người bác sỉ đầu tiên ở Đà Lạt . Hầu hết người Đà Lạt ra đời ở nhà bác sỉ Lemoine, xây năm 1935 , sau đó thì sang lại cho bác sỉ Sohier . Bác sỉ Sohier mua lại Villa của bác sỉ Lemoine ( con rể của ông Cunhac ) , xây năm 1935,
làm thành nhà thương tư đầu tiên ở Đà Lạt .

l22

l41

l32

French Building, Dr. Lemoine Villa – 1935.

l61

Được xây dựng từ năm 1935. Ngày trước, đây là biệt thự của bác sỹ Lemoine, nằm trên một ngọn đồi cạnh hồ Xuân Hương, có diện tích hơn 15 ha. Sau đó bác sỹ Sohier thành lập một dưỡng đường tư. Kiến trúc mang dáng dấp vùng Bretagne với sự phô diễn các khối tường đầu hồi tam giác vững chắc và mạnh mẽ.

l71

l51

l81

Biệt thự Nguyễn Viết Xuân gồm nhiều biệt thự Pháp

nvx1

nvx2

French Building Nguyễn Viết Xuân

nvx3

nvx9

nvx8

nvx7

ibg1426144260_nguyen-viet-xuan-villa

nvx12

nvx11

Hoàng Triều Cương Thổ road©. T. Do Khac . Allrights reserved .

_________________________________________________________________________

Note

Ông Nguyễn Hữu Hào vốn là một đại điền chủ giàu có,[1] quê quán tại Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông kết hôn với bà Lê Thị Bình, con gái ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong những người giàu có nhất Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1914, vợ chồng Nguyễn Hữu Hào đã sinh được hai người con gái, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào lấy chồng là bá tước Didelot. Năm 1927, Nguyễn Hữu Thị Lan lúc bấy giờ sang Pháp học, 7 năm sau trở về Việt Nam và được Hoàng đế Bảo Đại cưới làm vợ và tấn phong làm Nam Phương Hoàng hậu. Bà Nam Phương đưa cha lên sinh sống ở Đà Lạt. Mùa thu năm Kỷ Mão (13 tháng 9 năm 1939), Nguyễn Hữu Hào mất tại đây – bà Nam Phương Hoàng Hậu cho xây dựng lăng mộ cho ông vào cuối năm 1939.

Baron H Pierre DIDELOT
Né le 7 août 1898 – Saint-Rémy-en-Bouzemont,FRANCE
Décédé – Paris,75000,Paris,Île-de-France,FRANCE
Capitaine d’artillerie, directreur des Services d’Extême-Oirent de l’agence radiotélégraphique de l’Indochine et du Pacifique, Polytechnicien, chevalier de la Légion d’Honneur, Croix de Guerre 1914-1918.

Nam tước Pierre Didelot, Đại úy (capitaine) Pháo binh trong Quân đội Pháp[1] và giám đốc thông tấn xã Havas ở Hà Nội. Vào thập niên 1930 gia đình ngụ ở số 177, Rue Paul Blanchy (sau năm 1954 là đường Hai Bà Trưng), Sài Gòn[3] rồi chuyển ra 72, Boulevard Carnot (đường Phan Đình Phùng), Hà Nội.[4] Sau Đệ nhị Thế chiến Nam tước Didelot, bấy giờ thăng là đại tá (colonel) được vua Bảo Đại bổ nhiệm làm Khâm mạng Hoàng triều Cương thổ.[3] [4] [5]

Những ngày cuối cùng ở Nhà Sohier, NGUYỄN-THẾ-BÀI
ĐÔI NÉT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH. FOYER “SOHIER”, 2004

Nhà thương tư Sohier – có một chút khác biệt và được cải tiến nhiều so với các biệt thự khác, phù hợp với mục đích chữa trị bệnh nhân: các cửa sổ lớp ngòai theo phong cách truyền thống, bằng gỗ dày và kín đáo, còn bên trong là lớp kính dày, với hệ thống cửa sổ và màn vải dày, rất kín đáo và ấm áp khi được khép và kéo màn lại, nhưng lại rất sáng sủa, trong lành mỗi khi màn được kéo và các lớp cửa sổ được mở hoặc đẩy lên. Bên trong mỗi phòng bệnh rộng rãi, đều có bố trí một lò sưỡi lớn được trang trí rất đẹp. Trên vách tường, phía bên trên các cửa sổ và góc phòng, đều có những lỗ thông khí có nắp che, mà người ta quen gọi là “Oeil de chat”. Bình thường, các lỗ thông hơi vẫn được mở, vì diện tích không nhỏ, không làm các căn phòng bị gió lạnh, nhưng mỗi khi đốt lò sưỡi, thì việc đóng các lỗ thông khí ấy trở thành mối hiểm nguy, có thể đe dọa tính mạng những người ở trong phòng,nhất là khi có đông người, mà lượng oxy bị lò sưởi và số đông người làm cạn kiệt. Lúc ấy, nếu không có sự can thiệp từ bên ngòai, thì những người ở bên trong, trong trường hợp nhu thế sẽ khó tránh nguy tử. Và việc đã xãy ra như vậy cho nhà thương bác sĩ Sohier: bảy bệnh nhân đang điều trị, nằm trong căn phòng rộng lớn, đã khơi đốt lò sưỡi, nhưng lại sập kín hết các lỗ thông hơi. Sự việc quá nhỏ mọn, đến mức không ai để tâm đến. Bệnh nhân ấm áp, ngủ say. Lò sưỡi rực cháy. Hai cánh cửa chính cách âm khép chặt. Và sáng hôm sau, người ta phát hiện ra thảm kịch; cả bảy bệnh nhân đều đã chết ngạt. Bác sĩ Sohier ra tòa ,nhưng luật sư của ông đã đưa ra những chứng cứ, cho thấy vị bác sĩ không có lỗi cố tình, mà chỉ do nhân viên và nhất là bệnh nhân. Nhưng nhà thương tư không được tiếp tục mở cửa nữa, sau khi hòan tất cà thủ tục bồi hòan. Cho đến năm 1966, với cố tâm chiếm bằng được ngôi biệt thự, Bà Nguyễn-Thị-Hậu , Thị-trưởng Đàlạt (1965 – 1966), người tình của ông Nguyễn-văn-Thiệu, lợi dụng quyền thế của một thị-trưởng, bà làm hồ sơ kiện vị bác sĩ người Pháp. Nhận lời bào chữa ông Sohier, Bà luật sư Nguyễn-Phước-Đại, một trong các nữ luật sư thành danh và tiếng tăm bấy giờ (cùng bà luật sư Ngô Bá Thành, vừa qua đời tháng 2 /2004) đã đưa ra các lý chứng cứng rắn, khiến các luật sư của nguyên đơn không thể khuất phục và thắng được.
Đức Giám Mục người Pháp Paul Seitz, mơ ước, hẳn nhiên không phải để hưởng thụ, mà vì Ngài đang cần một ngôi nhà để di chuyển các chủng-sinh của Ngài lên Đàlạt, tiếp tục học, vì thế nhận xét và hiểu biết của Ngài, sẽ chẳng có nơi đâu ở Miền Nam có điều khiện tốt hơn cho việc đào tạo văn hóa và đời sống tu sinh thừa sai sau nầy. Ngài đã liên hệ với bác sĩ Sohier, đúng lúc vị bác sĩ cảm thấy bị bức bách quá đáng, cũng đang muốn bán đi ngôi biệt thự bao năm dày công xây dựng bảo quản. Giá “sang nhượng” là bao nhiêu, thì không mấy ai được biết, chứ chưa nói là biết chính xác, nhưng có nhiều người cho rằng đó là con số chẳn: 11 triệu đồng Việt Nam. Lúc bấy giờ, một đô la Mỹ “ăn” 75 đồng và tiền giấy Việt-nam có mệnh giá cao nhất là tờ 500 đồng (mãi đến năm 1971 mới phát hành giấy bạc 1.000 đồng). Ở thời điểm “trao đổi” ấy, giá một chiếc gắn máy Nhật được bán ở thị trường là 20.000 đồng và giá ưu đãi cho sĩ quan là 16.000 đồng..
Khi biết tin mọi sự đã tốt đẹp, Đức Cha đã bổ nhiệm Cha Phaolô Lê-Quang-Trinh, bấy giờ đang là quản lý tiểu chủng viện Kontum, làm bề trên tiểu chủng viện Sohier, với nhiệm vụ trước mắt giúp Đức Cha chuẩn bị tổ chức để đón những lớp chủng sinh đầu tiên nhập học.[6]

Nhà Thương Sohier : bác sỉ Sohier mua lại Villa của bác sỉ Lemoine ( con rể của ông Cunhac ), xây năm 1935, làm thành nhà thương tư đầu tiên ở Đà Lạt . Năm 1966 sau khi tới nhà bác sỉ Sohier ăn cơm tối , trên đường về nhà ( bây giờ là khách sạn Empress ) bên hồ Xuân Hương luật sư Dương Trung Tín bị bắn chết .

Literatur :

[1] Wikipedia
[2] Jennings, Eric T. (2011). Imperial Heights: Dalat and the Making and Undoing of French Indochina  University of California Press. (Kindle Locations 5696-6196).
[3] Brodrick, Alan. Little China, the Annamese Lands. London: Oxford University Press, 1942. tr 195
[4] Bulletin des Ami du Vieux Hue Vol 1, Jan-Mar 1930. tr 275
[5] Bulletin des Ami du Vieux Hue Vol 4, Oct-Dec 1937. tr 456
[6] Những ngày cuối cùng ở Nhà Sohier, NGUYỄN-THẾ-BÀI, 2004

Hinterlasse einen Kommentar